Hội chứng nuôi ăn lại là gì? Các công bố khoa học về Hội chứng nuôi ăn lại

Hội chứng nuôi ăn lại xảy ra khi người suy dinh dưỡng hoặc nhịn ăn lâu ngày bắt đầu ăn lại quá nhanh, dẫn đến biến chứng về chuyển hóa và điện giải. Nguyên nhân chính do thiếu glycogen, protein, lipid và mất cân bằng điện giải. Triệu chứng xuất hiện sau 24-48 giờ, gồm mệt mỏi, yếu cơ và có thể gây suy tim. Nguy cơ tăng ở người suy dinh dưỡng mãn tính, rối loạn ăn uống, và kém hấp thụ dinh dưỡng. Chẩn đoán dựa vào lịch sử dinh dưỡng và xét nghiệm máu; điều trị bằng cách điều chỉnh dinh dưỡng thận trọng và bổ sung điện giải. Phòng ngừa bằng cách theo dõi và đào tạo y tế.

Hội Chứng Nuôi Ăn Lại: Tổng Quan và Định Nghĩa

Hội chứng nuôi ăn lại là một tình trạng nguy hiểm có thể xảy ra khi một người bị suy dinh dưỡng hoặc nhịn ăn trong một thời gian dài được cho ăn lại một cách quá nhanh chóng. Hội chứng này có thể dẫn đến những biến chứng nghiêm trọng liên quan đến sự chuyển hóa và cân bằng điện giải trong cơ thể.

Các Nguyên Nhân Dẫn Đến Hội Chứng Nuôi Ăn Lại

Hội chứng nuôi ăn lại thường xảy ra khi sự hấp thụ dinh dưỡng được khôi phục đột ngột sau thời gian cơ thể bị suy dinh dưỡng. Một trong những nguyên nhân chính là do sự thiếu hụt glycogen, protein, và lipid dự trữ, cùng với sự mất cân bằng trong các chất điện giải như phốt pho, kali, và magiê.

Biểu Hiện Lâm Sàng và Triệu Chứng

Các triệu chứng của hội chứng nuôi ăn lại có thể xuất hiện trong vòng 24-48 giờ sau khi nuôi ăn trở lại. Các triệu chứng bao gồm mệt mỏi, yếu cơ, rối loạn điện giải, nhịp tim nhanh, và khó thở. Trong trường hợp nặng, có thể xảy ra biến chứng đe dọa tính mạng như suy tim và rối loạn nhịp tim.

Các Yếu Tố Nguy Cơ

Một số yếu tố có thể gia tăng nguy cơ phát triển hội chứng nuôi ăn lại bao gồm suy dinh dưỡng mãn tính, rối loạn ăn uống như chán ăn hoặc tâm thần phân liệt, lạm dụng rượu, và các bệnh lý làm giảm khả năng hấp thụ dinh dưỡng.

Phương Pháp Chẩn Đoán

Chẩn đoán hội chứng nuôi ăn lại chủ yếu dựa vào lịch sử dinh dưỡng của bệnh nhân và các dấu hiệu lâm sàng. Xét nghiệm máu để đánh giá mức độ điện giải cũng rất cần thiết để phát hiện các thay đổi sinh hóa điển hình của hội chứng này.

Quản Lý và Điều Trị

Quản lý hội chứng nuôi ăn lại đòi hỏi một kế hoạch nuôi ăn thận trọng và từ từ. Ban đầu, nên cung cấp dinh dưỡng với lượng calo thấp và tăng dần dựa theo sự chịu đựng của bệnh nhân. Việc bổ sung các chất điện giải như phốt pho, kali, và magiê cũng rất quan trọng trong quá trình theo dõi và điều trị.

Phòng Ngừa Hội Chứng Nuôi Ăn Lại

Để phòng ngừa hội chứng nuôi ăn lại, việc điều chỉnh chế độ ăn từ từ và theo dõi sát sao các dấu hiệu sinh hóa của bệnh nhân là rất cần thiết. Ngoài ra, việc đào tạo và nâng cao hiểu biết cho các nhân viên y tế về hội chứng này cũng góp phần quan trọng trong công tác phòng ngừa.

Kết Luận

Hội chứng nuôi ăn lại là một cảnh báo về quan trọng của việc điều chỉnh dinh dưỡng cách thận trọng, đặc biệt ở những bệnh nhân có nguy cơ cao. Sự hiểu biết và quản lý hiệu quả có thể ngăn chặn các biến chứng nghiêm trọng, đảm bảo quá trình hồi phục dinh dưỡng an toàn và hiệu quả.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "hội chứng nuôi ăn lại":

TỈ LỆ NGUY CƠ HỘI CHỨNG NUÔI ĂN LẠI VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở NGƯỜI BỆNH PHẪU THUẬT ỐNG TIÊU HOÁ TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI NĂM 2021-2022
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 519 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ có nguy cơ hội chứng nuôi ăn lại (HCNAL) ở nhóm người bệnh phẫu thuật ống tiêu hoá và một số yếu tố liên quan. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 104 người bệnh từ 18 tuổi trở lên. Đánh giá nguy cơ HCNAL trong vòng 24 – 72h đầu nhập viện. Kết quả: Tỉ lệ người bệnh có nguy cơ HCNAL chiếm 42,3%, trong đó 63% có nguy cơ mức độ nặng, 37% mức độ trung bình. Có sự khác biệt giữa 2 nhóm có và không nguy cơ về cân nặng, BMI trung bình, phần trăm sụt cân trong 1 tháng, 6 tháng, nồng độ kali huyết thanh, hẹp môn vị, ung thư thực quản (p < 0.05). Phẫu thuật ống tiêu hoá trên, các mặt bệnh có tính chất tắc nghẽn/ bán tắc làm tăng nguy cơ HCNAL lên lần lượt là 17 lần (95%CI: 2,9 – 99,5; p < 0,001) và 13,3 lần (95%CI: 4,2 - 42,4; p < 0,001). Kết luận: Tỉ lệ nguy cơ HCNAL ở nhóm người bệnh phẫu thuật ống tiêu hoá rất cao, phẫu thuật ống tiêu hoá trên và các bệnh lý có tắc nghẽn/bán tắc ống tiêu hoá là yếu tố nguy cơ HCNAL.
#Hội chứng nuôi ăn lại #nuôi dưỡng #phẫu thuật ống tiêu hoá
18. Thực trạng nguy cơ hội chứng nuôi ăn lại và mối liên quan đến tình trạng dinh dưỡng ở người bệnh điều trị nội khoa tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội năm 2023
Tạp chí Nghiên cứu Y học - Tập 181 Số 8 - Trang 166-173 - 2024
Nghiên cứu mô tả cắt ngang nhằm đánh giá thực trạng nguy cơ hội chứng nuôi ăn lại và một số yếu tố liên quan trên 200 người bệnh điều trị nội khoa tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội năm 2023 cho kết quả: Tỷ lệ người bệnh nhập viện có nguy cơ hội chứng nuôi ăn lại chiếm 22,5%, chủ yếu là nguy cơ mức độ vừa. Những người bệnh có tình trạng dinh dưỡng suy giảm với BMI < 16 hoặc SGA – C có nguy cơ mắc hội chứng nuôi ăn lại cao hơn có ý nghĩa thống kê. Như vậy cần đặc biệt thận trọng trong vấn đề khởi động can thiệp dinh dưỡng trên những người bệnh có tình trạng dinh dưỡng suy giảm lúc nhập viện.
#Nguy cơ hội chứng nuôi ăn lại #suy dinh dưỡng #nội khoa #tình trạng dinh dưỡng
Nghiên cứu thực trạng dinh dưỡng theo thời gian nằm viện ở bệnh nhân suy tim cấp tính tại Khoa Hồi sức Tim mạch - Bệnh viện Trung ương Quân đội 108
Mục tiêu: Tìm hiểu thực trạng dinh dưỡng ở bệnh nhân suy tim cấp tính tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Đối tượng và phương pháp: 45 bệnh nhân suy tim cấp tính điều trị tại Khoa Hồi sức Tim mạch từ tháng 06/2020 đến tháng 08/2020. Đánh giá các yếu tố nguy cơ, số ngày nằm phòng hồi sức, số ngày nằm viện; tính điểm SGA và hội chứng nuôi ăn lại; tìm hiểu mối liên quan của tình trạng dinh dưỡng với thời gian nằm viện. Kết quả: Đa phần bệnh nhân có tình trạng suy dinh dưỡng mức độ vừa (SGA-B) (51,1%) và nặng (28,9%). Nguy cơ hội chứng nuôi ăn lại xuất hiện ở 13/45 bệnh nhân suy tim cấp tính (chiếm 28,9%). Sau 1 tuần điều trị, tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân đánh giá bằng thang điểm SGA có xu hướng cải thiện với p<0,01. Thời gian nằm phòng hồi sức và thời gian điều trị có xu hướng kéo dài ở bệnh nhân có tình trạng dinh dưỡng kém hoặc nguy cơ hội chứng nuôi ăn lại, với p<0,05. Kết luận: Bệnh nhân suy tim cấp tính có tỷ lệ suy dinh dưỡng cao. Tình trạng dinh dưỡng kém làm tăng thời gian điều trị của bệnh nhân suy tim cấp tính.
#Suy tim cấp tính #tình trạng dinh dưỡng #SGA #hội chứng nuôi ăn lại
16. Nguy cơ hội chứng nuôi ăn lại và một số yếu tố liên quan ở người bệnh ung thư thực quản xét chỉ định xạ trị
Tạp chí Nghiên cứu Y học - Tập 178 Số 5 - Trang 133-141 - 2024
Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 132 bệnh nhân ung thư thực quản tại Khoa Xạ trị Tổng hợp Tân Triều, Bệnh viện K từ tháng 3/2022 đến tháng 3/2024 nhằm đánh giá nguy cơ phát triển hội chứng nuôi ăn lại tại thời điểm xét chỉ định điều trị xạ trị. Tuổi chẩn đoán trung vị là 60,7, tỷ lệ nam:nữ là 131:1, 100% có mô bệnh học là ung thư biểu mô tế bào vảy. Đa số bệnh nhân có u thực quản ở vị trí 1/3 trên (74,3%) và khi chẩn đoán đã ở giai đoạn bệnh tiến triển tại chỗ - tại vùng hoặc di căn (giai đoạn III - IV, 87,1%). Tỷ lệ nguy cơ cao phát triển hội chứng nuôi ăn lại theo tiêu chuẩn của Viện chăm sóc sức khỏe chất lượng cao Quốc gia Anh (NICE) năm 2017 là 29,5%. Chiều dài khối u nguyên phát (với ngưỡng cut-off là 6,7cm), nuốt nghẹn từ độ 2 trở lên, có sút cân khi vào viện và ăn qua sonde mở thông dạ dày là các yếu tố có liên quan nguy cơ cao phát triển hội chứng nuôi ăn lại (p < 0,05).
#Ung thư thực quản #hội chứng nuôi ăn lại #xạ trị
Tổng số: 4   
  • 1